Thứ Bảy, 28 tháng 2, 2015

Nguyễn Thị Từ Huy - Toàn trị hay không toàn trị ?

Cảnh sát mặc thường phục bắt giữ sinh viên biểu tình chống Trung Quốc. AFP photo






Theo RFA - Share
Cách đây mấy tháng, nhân sự việc cuộc tranh chấp quyền lực tại một trường đại học tư trở thành một cuộc chiến truyền thông và gây sốt trên báo chính thống một thời gian dài, vì muốn hiểu thực chất của vấn đề, tôi bỏ thời gian tìm hiểu phương thức tổ chức của trường học Việt Nam thì đi tới chỗ phát hiện ra rằng : không chỉ ở các trường công, mà ở tất cả các trường học, tổ chức đảng được phát triển rất mạnh mẽ, chi phối chặt chẽ các hoạt động của trường.

Điều này đặt tôi trước một câu hỏi : xã hội Việt Nam đương thời có phải là một xã hội toàn trị hay không ?

Dĩ nhiên không thể có câu trả lời ngay lập tức, và cũng không thể có câu trả lời đầy đủ, nếu không có các nghiên cứu đủ sâu và đủ rộng.

Ở đây tôi dùng định nghĩa của Hannah Arendt về chủ nghĩa toàn trị như một quy chiếu, trong đó, bà nêu ra năm đặc điểm chính : một chính đảng duy nhất, một xã hội đám đông, một ý thức hệ thâm nhập khắp mọi phương diện của đời sống xã hội và đời sống cá nhân, khủng bố và tuyên truyền.

Nếu dựa vào định nghĩa này tôi giả định là chúng ta có thể đồng ý với nhau rằng xã hội Việt Nam thể hiện tính toàn trị trên 4 điểm : một chính đảng duy nhất, một xã hội đám đông, khủng bố và tuyên truyền.

Riêng vấn đề ý thức hệ có thể gây tranh cãi. Ít nhất có thể có mấy quan niệm như sau :

1. Ở Việt Nam chỉ có một ý thức hệ duy nhất là ý thức hệ cộng sản chủ nghĩa.

2. Thực ra ý thức hệ cộng sản chủ nghĩa chỉ còn tồn tại trong đầu óc của bộ phận nắm quyền lãnh đạo và một bộ phận đảng viên trong sạch và vẫn giữ lý tưởng từ thời quá khứ (mà dân gian gọi là « đảng viên nhưng mà tốt »). Còn đối với đa số dân chúng, ý thức hệ cộng sản chủ nghĩa chẳng còn có ý nghĩa gì nữa.

3. Ngay cả trong đầu óc của bộ phận cầm quyền và bộ phận trí thức nô có nhiệm vụ « nghiên cứu cơ bản về khoa học xã hội, cung cấp các luận cứ khoa học cho Đảng và Nhà nước trong việc hoạch định đường lối, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển nhanh và bền vững của đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa » (trích « Giới thiệu VHLKHXHVN » :http://www.vass.gov.vn/noidung/gioithieu/Pages/gioi-thieu-tong-hop.aspx), thì ý thức hệ cộng sản chủ nghĩa cũng không còn tồn tại. Trên thực tế, nó chỉ là cái bình phong, là phương tiện mà người ta nhất thiết phải duy trì để mưu cầu quyền lực và quyền lợi vật chất.

Ở đây tôi không có ý định trình bày quan niệm cá nhân. Trước một vấn đề quá phức tạp như vậy, muốn có ý kiến, cần phải có các nghiên cứu cẩn thận. Trước mắt, xin trình bày một vài hiện tượng có thể nắm bắt được cụ thể và cho phép tiếp tục suy nghĩ về vấn đề này.

Và cụ thể trong bài này tôi chỉ đề cập đến một hiện tượng : sự tồn tại của mạng lưới tổ chức đảng trong xã hội.

Đề cập đến hiện tượng này nhằm trả lời câu hỏi : « Liệu các tổ chức đảng có phải là đang thâm nhập khắp mọi phương diện đời sống xã hội hay không ? » (chỉ xét về đời sống xã hội, còn đời sống cá nhân không bàn ở đây, chúng tôi sẽ trở lại vào một dịp khác).

Ví dụ về trường học được nêu lên ở đầu bài này cho thấy rằng trong mọi lĩnh vực của đời sống: quân đội, an ninh, luật, y tế, giáo dục, văn hóa, truyền thông (tất cả các loại hình truyền thông), trong mọi phạm vi xã hội: nông thôn, thành thị, miền núi… đảng nhất định thiết lập sự kiểm soát và khẳng định tham vọng củng cố quyền lực tuyệt đối của đảng. Không có một lĩnh vực nào được phép phi chính trị, bằng chứng hùng hồn là những ai đòi quân đội phải phi chính trị để bảo vệ Tổ quốc sẽ bị xếp vào « thế lực thù địch ». Nhưng « phi chính trị » ở đây phải được hiểu theo cách của đảng, nghĩa là không một lĩnh vực nào được phép nằm ngoài sự kiểm soát của đảng, và mọi lĩnh vực đều phải phục vụ đảng.

Còn có một lĩnh vực mà thoạt nhìn ta có thể nghĩ rằng sự kiểm soát của đảng không đến nỗi chặt chẽ, rằng, kể từ thời kỳ đổi mới, để phát triển đất nước, có thể đảng sẽ nới lỏng và chừa một khoảng tự do nhất định cho nó, đó là lĩnh vực kinh tế, đặc biệt là khu vực kinh doanh tự do (nghĩa là không thuộc vào thành phần kinh tế nhà nước). Ta có thể nghĩ rằng khu vực kinh tế tư nhân và nước ngoài thì không phải chịu sự giám sát của đảng.

Tuy nhiên thực tế hoàn toàn không phải như vậy.

Chúng ta hãy đọc bài báo vừa mới công bố ngày 20/1/2015 trên « Tạp chí Xây dựng Đảng » , bài báo có nhan đề : « Tổ chức đảng trong doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước - Thực trạng và giải pháp », ở đường link :

http://www.xaydungdang.org.vn/Home/Lyluan-Thuctien-Kinhnghiem/2015/8029/To-chuc-dang-trong-doanh-nghiep-ngoai-khu-vuc-nha-nuoc.aspx

Chúng ta sẽ thấy rằng, đối với doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp nước ngoài, ngay từ năm 1996, « Bộ Chính trị (khoá VIII) đã có Chỉ thị số 07-CT/TW "Về tăng cường công tác xây dựng đảng và các đoàn thể nhân dân trong các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần tư nhân (gọi tắt là doanh nghiệp tư nhân) và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài" ».

Như vậy, tổ chức đảng tồn tại và phát triển ngay cả trong các công ty nước ngoài !!!

Bài báo cho biết : « Nếu như năm 1996, khi có Chỉ thị 07-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa VIII), gần như chưa có tổ chức đảng trong DNNKVNN thì đến hết năm 2013, theo thống kê của Ban Tổ chức Trung ương, đã có 5.656 tổ chức cơ sở đảng và 175.793 đảng viên trong các DNNKVNN. Tính đến cuối năm 2013, trong các đảng bộ tỉnh, thành phố, có một số đảng bộ có số lượng tổ chức đảng, đảng viên trong các DNNKVNN tăng mạnh, như: Hà Nội: số tổ chức đảng 1.095 và số đảng viên 22.268. Tương tự, TP. Hồ Chí Minh là 978 và 15.645; Đồng Nai 143 và 6.769; Hải Phòng 320 và 2.925…

Nhiều tổ chức đảng, đoàn thể nhân dân trong doanh nghiệp đã thể hiện được vai trò, vị trí của mình, góp phần tích cực vào sự ổn định và phát triển của doanh nghiệp. Nhiều nơi tổ chức đảng hoạt động tốt đã góp phần thúc đẩy sản xuất, tham gia giải quyết hợp lý các tranh chấp, ngăn chặn kịp thời đình công bất hợp pháp. Một số chủ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng nhận thức được vai trò tích cực của tổ chức đảng trong doanh nghiệp và tạo điều kiện cho tổ chức đảng hoạt động. »

Đây có phải là nguyên nhân khiến cho kinh tế Việt Nam lẽ ra có thể hóa rồng trong những năm 1990, nhưng rốt cuộc từ sau năm 2000 đã không thể nào cất cánh được ? Rất mong có được câu trả lời từ các nhà kinh tế học có tâm huyết với đất nước.

Còn có cái gì trên đất nước này có thể thoát khỏi vòng kim cô của đảng ? Như thế đã có thể gọi là toàn trị hay chưa ?

Dĩ nhiên tôi vẫn chưa có câu trả lời cuối cùng.

Phải đánh giá năng lực của tổng bí thư đương nhiệm như thế nào cho chính xác? Ông quả thực không hổ danh là tiến sĩ xây dựng đảng. Ông cùng với bộ máy các cấp của mình quả thực đã nỗ lực để biến đảng trở thành « trăm tay nghìn mắt », hiện diện khắp nơi và kiểm soát toàn bộ xã hội Việt Nam. Chỉ có điều ông không thấy rằng tay mắt của đảng càng phát triển thì đất nước càng lụn bại, văn hóa suy đồi, luật pháp băng hoại, giáo dục suy vi…

Nhưng có lẽ tổng bí thư đương nhiệm không chỉ giỏi xây dựng đảng ở trong lãnh thổ Việt Nam. Liệu đảng có thể sử dụng cả những người làm khoa học, những người thuộc tầng lớp trí thức của Việt Nam đang sống và làm việc ở nước ngoài trong việc tiếp tay cho đảng mở rộng tầm kiểm soát của đảng ? Cánh tay của đảng có được nối dài trên khắp thế giới không ? Có lẽ một vài quý vị độc giả sẽ cảm thấy buồn cười trước câu hỏi ngớ ngẩn này của tôi. Tôi cũng tự cảm thấy mình khôi hài khi đặt câu hỏi một cách kỳ cục như vậy.

Nhưng đôi khi một vài câu hỏi ngớ ngẩn lại rất có thể cho phép ta nhìn thấy một thể chế toàn trị vươn dài cánh tay của nó tới tận giới hạn nào. Hoặc, nếu nhìn từ góc độ khác, có thể thấy : kể cả những người sống trong một thế giới không-toàn-trị cũng có thể hưởng lợi từ một thiết chế toàn trị dù nó ở cách xa vạn dặm. Những người ấy, bằng cách cộng hưởng với nó mà củng cố sức mạnh cho nó, và giúp nó trường tồn trên chính sự suy vong của dân tộc.

Nguyễn Thị Từ Huy

Share