Lâm Thế Nguyên (ĐVDVN)
Bước vào năm 2010, tình hình nước ta
có nhiều điểm đáng chú ý. Nhìn mặt ngoài, nhà cầm quyền có vẻ thắng thế và giữ
được cái gọi là “ổn định chính trị”. Nhưng phân tách và nhìn kỹ lại mọi
góc cạnh của vấn đề, người ta thấy đảng VNCS đang vô cùng lúng túng, lo âu.
Chưa có lúc nào mà đảng cầm quyền lại tỏ ra mất tự tin ở sự ủng hộ của quần
chúng bằng hiện nay. Thực tế đó có thể nhìn thấy khá dễ dàng qua các luồng
thông tin phổ thông của Việt Nam và quốc tế.
Sự
kiện nhà cầm quyền bắt giữ những người đấu tranh ôn hoà, và kêu án họ một cách
nặng nề, chứng tỏ là đảng VNCS thật sự quan ngại với sự vùng dậy của các tổ
chức đấu tranh dân chủ. Cùng lúc đó, rõ ràng là họ lo sợ sự bộc phát của các
phong trào quần chúng đang bất mãn chế độ cùng cực. Đảng cầm quyền càng phản
ứng thô bạo bấy nhiêu, càng chứng tỏ là họ thiếu tự tin; và cái gọi là “ổn
định chính trị” giả tạo đang lung lay tận gốc rễ. Hành động đàn áp những
người đối lập ôn hoà tự nó chứng tỏ rõ ràng tình hình chính trị Việt Nam đang
sôi sục hơn bao giờ hết. Khi lúng túng và mất tự tin, bản năng sinh tồn đã thúc
đẩy đảng cầm quyền phản ứng một cách thô bạo hơn đối với những người đối lập.
Song
song với việc đàn áp người đấu tranh đòi dân chủ, nhà cầm quyền cũng đang đối
đầu với nguy cơ đối kháng lớn từ các tôn giáo.
Dù
đến nay không ai hiểu rõ được các uẩn khúc bên trong của sự kiện Bát Nhã, cũng
như của những vụ tranh chấp lớn giữa nhà cầm quyền VNCS và các giáo xứ Thiên
Chúa giáo, song việc công an VNCS dùng bạo lực để trấn áp những tu sĩ, tín đồ
là một vấn đề không ai có thể chấp nhận được. Thái độ mạnh bạo đó đúng ra phải
dùng để đối đầu với những kẻ đang xâm lấn đất nước ta.
Đến
nay, Hoà thượng Thích Nhất Hạnh đã có thái độ chính trị rõ ràng hơn đối với
đảng VNCS. Trong lá thư ký tên Giáo sư Nguyễn Lang, phổ biến trên các
mạng toàn cầu Làng Mai và Phù Sa, người sáng lập ra Pháp môn Làng Mai
đã đề nghị ông Chủ tịch NNVN phải "ngăn chận hành động trái chống
luân thường đạo lý" của công an Lâm Đồng. Ngày 2/10, vị thiền sư
nổi tiếng thế giới lại cho phổ biến tiếp thư gửi nhân sĩ, trí thức
trong và ngoài nước, kêu gọi họ "kịp thời lên tiếng để che chở cho
400 người trẻ đang bị bao vây và đàn áp tại chùa Phước Huệ ở Bảo Lộc."
Những lời nói ôn hòa nhưng sâu sắc với nhiều ý nghĩa của HT. Thích Nhất Hạnh,
đã khẳng định cái nhìn và thái độ của một tập thể Phật Giáo, sau một thời gian
gây nhiều tranh cãi về thái độ chính trị của ông.
Riêng
đối với Thiên Chúa Giáo, những gì đã và đang xảy ra ở Việt Nam cho thấy phần
nào sự mâu thuẫn xảy ra từ hai cuộc hội kiến của hai người lãnh đạo cao nhất
của Việt Nam là ông Nguyễn Tấn Dũng và ông Nguyễn Minh Triết với Đức Giáo Hoàng
đương thời. Tại sao nhà cầm quyền bất ngờ bắt giữ LM. Nguyễn Văn Lý vào tháng
3/2007 sau khi Nguyễn tấn Dũng viếng thăm Đức Giáo Hoàng Benedict XVI vào ngày
25/1/2007? Tại sao nhà cầm quyền VNCS tấn công thô bạo vào các giáo xứ sau khi
Nguyễn Minh Triết viếng thăm Đức Giáo Hoàng Benedict XVI vào ngày 11/12/2009?
Những bất đồng sâu xa gì đã xảy ra giữa Hà-Nội và Vatican khiến chuỗi tấn công
của nhà cầm quyền vào các giáo xứ Thiên Chúa Giáo đã phải xảy ra? Và với chiều
hướng này, sự chịu đựng của các tín đồ và giáo hội Thiên Chúa Giáo bao giờ sẽ
đạt đến mức “vỡ bờ”? Những mâu thuẫn của sự liên hệ đầy bí ẩn
giữa hai khối quyền lực này chắc chắn sẽ được phơi bày bằng diễn tiến tự nhiên
của nó trong một ngày không xa. Có thể nói, Giáo hội Thiên Chúa Giáo La-Mã chắc
chắn có những đối sách thích hợp hơn đối với chế độ VNCS trong thời gian tới. Tác
động của nó sẽ tiếp tục âm ỉ và trở lại sôi sục hơn khi tình hình có sự thay
đổi thuận lợi.
Tóm
lại, phản ứng nghịch lý và tồi tệ của đảng cầm quyền càng ngày càng khiến cho
những người đấu tranh ý thức được rằng: Đảng VNCS hoàn toàn không có thiện chí
muốn đổi mới thực sự, và con đường thay đổi đất nước duy nhất là phải thay đổi
chế độ độc đảng toàn trị thành một chính thể dân chủ đa đảng.
Tình
hình dân chủ hoá Việt Nam đang đứng trước những thử thách hết sức cam go và
phức tạp.
Cam
go là dù bị khủng hoảng nặng nề, đảng VNCS vẫn là một thế lực đáng ngại, với
một bộ máy nhà nước bao gồm cả quân đội, công an, và toàn bộ cơ quan truyền
thông, báo chí. Cho đến nay, ngoại trừ Ban Tổ chức Trung ương đảng, khó ai biết
được chính xác con số đảng viên và ngân sách tồn quỹ của đảng VNCS hiện thời là
bao nhiêu. Tuy nhiên, bằng nhận xét khách quan, người ta có thể nhìn thấy được
là tuy đảng VNCS càng ngày càng mất chính nghĩa nhưng họ có một bộ máy cầm
quyền với hàng triệu con người khả dụng, một mục tiêu phải gắn bó nhau để cùng
tồn tại, và một sách lược cho giai đoạn hiện tại lẫn tương lai đã được nghiên
cứu, chuẩn bị kỹ càng. Mặt khác, họ có một ngân sách khổng lồ, và có quyền sử
dụng toàn bộ phương tiện quốc gia cho mục tiêu bảo vệ đảng và chế độ tới cùng.
Và
phức tạp là đảng VNCS chắc chắn đã có những chuẩn bị tinh vi và đầy đủ cho
những tình huống chính trị có thể xảy ra ở Việt Nam, kể cả bối cảnh đảng VNCS
không còn nắm quyền lãnh đạo độc nhất và đất nước đã có tự do sinh hoạt chính
trị. Có thể nói, đảng VNCS đã học được kinh nghiệm tiền và hậu biến cố Đông Âu
vào cuối thập niên ’80; đã có đủ khôn ngoan và chuẩn bị để sẵn sàng tham gia
sinh hoạt dân chủ trong thế thượng phong. Vì lẽ, trong bối cảnh đó, họ đã có
sẵn con người, phương tiện và kế hoạch cần thiết để tranh giành ảnh hưởng trong
chế độ chính trị mới, với danh xưng và chiêu bài mới.
Đó
là chưa kể, nhà nước VNCS hiện đang có chính danh trước cộng đồng thế giới, có
sự bang giao và quan hệ kinh tế một cách sâu đậm với nhiều quốc gia, kể cả
những cường quốc vốn có quá trình mâu thuẫn quyền lợi chiến lược với VNCS. Danh
nghĩa và sự ràng buộc quyền lợi này là một lợi thế cho sự tồn tại của đảng
VNCS, và cũng là của chế độ đương thời. Quan hệ tương quan quyền lợi này chỉ
thay đổi khi tình hình chính trị Việt Nam đã chuyển đổi rõ nét, và biến chuyển
thay đổi chế độ đã gần kề.
Trước
bối cảnh đó, các tổ chức đấu tranh đang phải đối đầu với thử thách không thể
tránh khỏi là trả lời câu hỏi: Dùng sách lược nào để dân chủ hoá đất nước, khi
đảng VNCS nhất quyết không nhân nhượng trước cao trào dân chủ, không quan tâm
đến những đòi hỏi đổi mới hay tôn trọng nhân quyền một cách ôn hoà, và ngay cả
không chấp nhận tinh thần chống ngoại xâm của những người yêu nước? Nếu cuộc
dân chủ hoá này chỉ tuỳ thuộc vào nỗ lực của các nhà dân chủ đối lập công khai,
thì tiến triển của nó rõ ràng lệ thuộc vào thái độ và phản ứng của chế độ. Họ
nới lỏng thì phong trào bùng lên, họ thắt chặt thì phong trào co cụm lại. Trong
hoàn cảnh bị cô lập nặng nề như hiện nay, những người đối lập công khai không
có nhiều điều kiện để vận động hay tổ chức phong trào quần chúng. Khó khăn hơn
nữa, họ có thể bị bắt giam bất cứ lúc nào, và gán cho bất cứ tội danh gì, kể cả
tội phản quốc. Bản án đối với 5 người đấu tranh dân chủ vào tháng 1/2010 là một
thách thức rất lớn.
Tuy
nhiên, dù tình trạng đàn áp này nhất thời có thể gây khó khăn cho một số hoạt
động đối lập công khai song nếu nhìn qua lăng kính tranh đấu tích cực, nó là “chất
liệu” vô cùng cần thiết để thúc đẩy tinh thần đấu tranh quyết liệt hơn, đặc
biệt là đối với các lực lượng đối kháng bí mật ở trong nước. Đảng cầm quyền
càng có nhiều hành động nghịch lý, tai hại và tàn bạo bao nhiêu, thì càng giúp
cho công cuộc đấu tranh dân chủ hoá đất nước thuận lợi thêm bấy nhiêu. Cuộc đấu
tranh dân chủ hoá Việt Nam sẽ thuận lợi hơn một khi tình trạng nghịch lý do nhà
cầm quyền gây ra trở nên to lớn hơn một cách bất thường. Nhưng tình trạng đó có
trở thành yếu tố thuận lợi và khả dụng hay không vẫn tuỳ thuộc vào mức khai
dụng của các tổ chức tranh đấu.
Trên
trường đấu tranh trực diện, các tổ chức có mạng cơ sở ở trong nước chỉ còn có
hai sự lựa chọn là: 1. Nỗ lực bằng mọi hình thức và phương tiện để giành
lại quyền chủ động tình hình chính trị của đất nước, bằng cách nhắm đánh vào
yếu điểm lớn nhất của chế độ là sự “ổn định chính trị” giả tạo; 2. Chấp
nhận tình trạng bị động để bảo toàn an ninh cơ sở, chờ đợi thời cơ thuận lợi
hơn.
Đối
với Đảng Vì Dân, đấu tranh là phải chủ động tiến hành theo sách lược tổ chức đã
vạch ra , là tiếp tục kêu gọi sự thành hình một giải pháp chính trị cho Việt
Nam, song đồng thời vẫn thúc đẩy các hoạt động đấu tranh quyết liệt để tạo các
áp lực chính trị cần thiết cho tiến trình thay đổi thể chế.
Chỉ
có sự chủ động mới giúp cho lực lượng quốc gia vượt thắng được các trở ngại do
đảng cầm quyền gây ra và từ đó, điều hướng cuộc đấu tranh dân chủ hoá đất nước
theo con đường thuận lợi nhất cho đất nước.
Trong
tình hình này, mọi ý hướng đấu tranh tích cực đều có thể phải trả một giá rất
đắt, nhưng trong thực tế lịch sử, thành công của các cuộc đấu tranh đều có cái
giá to lớn của nó, kể cả bằng máu xương khi cần thiết. Chúng ta cố gắng hết sức
để không gây ra đổ vở, mất mát cho đất nước, đồng bào, và luôn nỗ lực tìm kiếm
các giải pháp ôn hoà nhất cho những vấn đề chung. Tuy nhiên, ôn hoà không có nghĩa
là chấp nhận để đảng VNCS tiếp tục sự thống trị độc tài, tham ô, bất công; cũng
như tiếp tục sống trên mồ hôi, nước mắt và máu của nhân dân.
Cuộc
đấu tranh giải thể chế độ độc tài toàn trị VNCS không còn là một cuộc vận động
dân chủ bình thuờng, mà là một cuộc đấu tranh quyết liệt để cứu nước và cứu
dân. Cứu nước khỏi nạn nô lệ Bắc phương để phục hồi lãnh thổ quốc gia, cứu dân
khỏi nạn độc tài, tham ô và bất công, là nhiệm vụ của các tổ chức đấu tranh
thực sự vì nước, vì dân.
Lâm Thế Nguyên (ĐVDVN)
VPLL Đảng Vì Dân cảm ơn bạn đã xem bài. Rất mong bạn sẽ chuyển
nội dung, hoặc LINK của bài viết này đến các thân hữu khác. Chân thành cảm ơn
sự quan tâm của bạn!