Hoàng Thanh Trúc - Danlambao - Vì sao? Sau 40 năm, thì hôm nay “nhà nước, đảng” CSVN: “Lần đầu tiên, mới đưa văn bản gốc “Hiệp Định Paris” giới thiệu tới công chúng? (báo Tuổi Trẻ).
Kính
lão đắc thọ. Vì vậy dù rất cố gắng trong tiềm thức muốn dựa vào một
chút gì đó từ đạo lý nhân văn để kính trọng một người phụ nữ lớn tuổi
(86 tuổi) gọi nhà chí sĩ yêu nước Phan chu Trinh của thế kỷ trước (XX)
là ông ngoại, nhưng trái tim tôi cứ lạnh lùng chống lại, khi nhìn hình
ảnh bà mà lòng gợn gợn như muốn “buồn nôn”. Đó là Bà Nguyễn Thị Bình,
Cựu PCT/Nước CHXH/CN/VN.
Bởi
ấn tượng từ hình ảnh 40 năm trước, bà được CSVN đặt vào vị trí “Bộ
Trưởng ngoại giao, một quốc gia “không đất, không dân” trong Chính Phủ
Cách Mạng /MTGP/MN” tại bàn Hội Đàm 4 bên để ký kết Hiệp Định Paris. Một
bộ trưởng “ảo” trong một chính phủ “ma” của một quốc gia chỉ có trên
giấy, để làm công cụ tay sai cho một chế độ theo chủ nghĩa “khát máu”
nhất, mà loài người định danh là “CNCS Tội ác chống nhân loại” với hàng
trăm triệu nạn nhân (Victims of Communism Memorial) trong đó có hàng triệu nạn nhân Việt Nam.
Nguyên bộ trưởng ngoại giao của một quốc gia “không đất, không dân” của
MTGP/MN Nguyễn Thị Bình “vinh hạnh” chỉ cái khoảnh khắc,
hình ảnh của mình đặt bút ký “Lừa bịp quốc tế”tại Paris 1973 – Ảnh: V.DŨNG
MTGP/MN Nguyễn Thị Bình “vinh hạnh” chỉ cái khoảnh khắc,
hình ảnh của mình đặt bút ký “Lừa bịp quốc tế”tại Paris 1973 – Ảnh: V.DŨNG
Hơn
ai hết, chính bà đã biết số phận của cái “Chính Phủ Lâm Thời MTGP/MN”
không đất, không dân, làm bù nhìn tay sai ấy sau 30/4/1975 nó ra sao
rồi. Nhiều “đồng chí” cũ của bà như những miếng chanh vắt “hết nước”
dưới bàn tay độc tài đầy thủ đoạn của CS Bắc Việt. Còn riêng bà thì hoan
hỉ, 10 năm làm vật trang trí cho chế độ.
40
năm thời gian thừa thải cho một trẻ thơ hoàn thiện, tự lớn lên trong
nhân cách chuẩn mực một con người, nhưng sao 40 năm một con người khốn
lớn, bạc mái đầu, nhưng nhân cách phẩm giá lại thấp xuống trước đồng bào
nhân dân mình? Khi cứ lẫn tránh một chân lý: “Sự thật là chân lý của mọi chân lý”.
90
triệu đồng bào cả nước và nhất là 40 triệu người dân miền Nam, có quyền
đặt câu hỏi với bà Nguyễn Thị Bình, một trong 2 người thuộc phía CSVN
đặt bút ký trong Hiệp Định Paris 1973 – Vì sao? Sau 40 năm thì hôm nay
mới có:
“…
Lần đầu tiên, văn bản gốc Hiệp định Paris được giới thiệu tới công
chúng tại triển lãm Kỷ niệm 40 năm ngày ký kết Hiệp định Paris về
VN…”(báo TuổiTrẻ). Nếu “nhà nước, đảng” này nói đó là: “…
sự phối hợp tài tình giữa mặt trận chính trị, quân sự và ngoại giao, sự
ủng hộ của nhân dân yêu hòa bình thế giới để đi tới Hiệp định Paris
giành lại hòa bình cho VN”?… (báo
Tuổi Trẻ) – Nó có thật sự mang lại Hòa Bình cho 2 miền đất nước VN theo
đúng như tinh thần Hiệp Định mà bà Bình và CSVN đã đặt bút ký, và theo
như lời họ rêu rao?
Chữ ký của CS Bắc Việt và bà Nguyễn Thị Bình trong HĐ Paris
40
năm nhìn lại, Hiệp Định Paris giống hệt như số phận của bản “Tuyên Ngôn
Quốc Tế Nhân Quyền” mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là thành
viên của Liên Hiệp Quốc, là nước đã ký công nhận tuân thủ để thực thi.
Nhưng CS/Việt Nam không thực hiện bản tuyên ngôn ấy và không hề phổ biến
cho nhân dân Việt Nam biết rõ về Bản Tuyên Ngôn này, bưng bít suốt mấy
mươi năm. Đại trà, đồng bào nhân dân Việt nam chỉ biết rõ, khi Internet
nối mạng toàn cầu.
Nếu Hiệp Định Paris là: “Mốc son chói lọi của nền ngoại giao cách mạng Việt Nam” (báo
Hà Nội mới) thì tại sao các nội dung chi tiết tổng thể toàn bộ của 21
chương và 9 điều khoản của nó không được CSVN công khai phổ biến như
“tôn vinh” hay “giáo dục” cho nhân dân và học sinh, sinh viên suốt 40
năm qua?
9 Điều khoản Hiệp Định Paris:
1.
Hoa Kỳ và các nước khác tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh
thổ của Việt Nam như được công nhận bởi Hiệp Định Geneva..
2.
Ngừng bắn trên toàn Việt Nam sẽ bắt đầu từ 27tháng 1 năm 1973: với tất
cả các đơn vị quân sự ở nguyên vị trí. Mọi tranh chấp về quyền kiểm soát
lãnh thổ sẽ được giải quyết bởi uỷ ban quân sự liên hợp giữa hai lực
lượng của Việt Nam Cộng hòa và Chính Phủ Cách mạng lâm thời CHMNVN.
3.
Tất cả tù binh chiến tranh của các bên sẽ được trao trả không điều kiện
trong vòng 60 ngày. Các tù nhân chính trị sẽ được trả tự do sau đó theo
thoả thuận chi tiết của các phía Việt Nam.
4.
Miền Nam Việt Nam có hai chính quyền, hai quân đội, hai vùng kiểm soát.
Các bên tạo điều kiện cho dân chúng sinh sống đi lại tự do giữa hai
vùng. Nhân dân Nam Việt Nam sẽ quyết định tương lai chính trị của mình
qua "tổng tuyển cử tự do và dân chủ dưới sự giám sát quốc tế".
5. Sự tái thống nhất Việt Nam sẽ được thực hiện từng bước bằng các biện pháp hòa bình.
6.
Để giám sát việc thực hiện hiệp định, một ủy ban kiểm soát và giám sát
quốc tế và phái đoàn quân sự liên hợp bốn bên (gồm Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà, Hoa Kỳ, Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam và Việt Nam
Cộng hoà) sẽ được thành lập.
7.
Lào và Campuchia giữ vị trí trung lập và tự chủ, không cho nước ngoài
được phép giữ các căn cứ quân sự trong lãnh thổ của hai nước này.
8.
Hoa Kỳ có nghĩa vụ sẽ giúp đỡ việc tái thiết sau chiến tranh, đặc biệt
là ở miền Bắc Việt Nam và trên toàn Đông Dương, để hàn gắn các thiệt hại
do chiến tranh.
9.
Tất cả các bên đồng ý thi hành hiệp định. Và hiệp định được sự bảo trợ
của quốc tế thông qua việc các quốc gia ký nghị định thư quốc tế về chấm
dứt chiến tranh lập lại hoà bình ở Việt nam.
Các
Ngoại trưởng quốc gia: Hoa Kỳ, Hung–ga–ri, Indonesia, Anh Quốc, Liên
Xô, Canađa, Trung Quốc, Bắc Ireland cùng chứng kiến và ký xác nhận trong
Hiệp Định này.
Thưa
bà Nguyễn Thị Bình, dù có là muộn màng, lẫn tránh sau 40 năm thì hôm
nay, những ngày còn lại cuối cuộc đời, có thể nào bà trả lời cho toàn
dân Việt Nam: Sau khi bà và CS Bắc
Việt ký Hiệp Định Paris 1973 thì CS Bắc Việt và MTGP/MN đã tuân thủ được
bao nhiêu điều khoản đã ký trong Hiệp Định trước cộng đồng quốc tế nói
trên? Có phải vì những thực tế, Khi Mỹ rút hết quân đội, CS Bắc Việt
nhanh chóng trở mặt, tiến hành tấn công miền Nam “lừa bịp” chà đạp Hiệp
Định Paris xóa bỏ uy tín của một quốc gia với cộng đồng quốc tế. Thù hằn
tù đày giết hại hàng trăm ngàn sỉ quan công chức miền Nam, ngược lại
với “công ước tù binh” quốc tế và HĐ paris, phỉ báng đạo lý của dân tộc
Việt Nam, như thế này:
Nên
“văn bản gốc Hiệp định Paris” nó không thể sớm phổ biến trong lòng dân
tộc “hiếu hòa” 4000 năm văn hiến Việt Nam? Vì CSVN sợ đồng bào nhân dân
trong nước và công luận quốc tế nhận ra những vi phạm trắng trợn các
điều khoản trong Hiệp định, sẽ “lên án phỉ nhổ” xem đó là hành vi “mọi
rợ, lưu manh” không thể có từ một “nhà nước” của một Quốc Gia với cộng
đồng quốc tế văn minh và chính dân tộc mình!? Có đúng như vậy không? Hỡi
“đảng ta” và bà Nguyễn thị Bình?
Thưa
bà Bình, quỹ thời gian còn lại cuộc đời bà không còn nhiều, là người có
nhúng tay trong cuộc “kinh doanh” lớn của CSVN mà vốn liếng là “núi
xương, sông máu” dân tộc, thì bà và CSVN không thể không nhẩm tính để
biết kết quả mang lại từ gần 5 triệu nhân mạng đồng bào trải dài trên
con đường 67 năm và từ cái “Hiệp Định Paris” có bàn tay bà ký ấy nó “lời
lãi” ra sao?.
Hy
sinh ngần ấy máu xương, để lấy về một quốc gia: phía Bắc, phải tương
nhượng gần 1000 km2 đất trời và Ải Nam Quan cho kẻ thù truyền kiếp, phía
Đông cũng bị “bạn vàng, đồng chí” CS Trung Quốc xâm lược đảo biển lãnh
hải quê nhà. 40 năm sau Hiệp Định Paris CSXHCNVN là quốc gia có số dân
nghèo gần đứng đầu khu vực Asean (sau Campuchia) và duy nhất ở Châu Á,
Việt Nam là quốc gia có nhiều phụ nữ phải tha hương “lấy chồng cầu thực”
(300.000) tại 3 quốc gia: Trung Quốc, Đài Loan và Hàn Quốc.
Nghiêm trọng hơn hết là lợi dụng “Hiệp Định Paris” do cái “Mốc son chói lọi của nền ngoại giao cách mạng CS Việt Nam” chủ
trương “đẩy quân Mỹ ra khỏi miền Nam Việt Nam” để biển Đông không còn
ai “giám sát” răn đe, cho Trung Quốc ngang ngược đe dọa xâm lược chủ
quyền bằng áp lực quân sự lên toàn vùng biển Đông của Việt Nam hiện
nay.
Cuối
cùng xin gửi đến bà và CSVN một “điển tích” mà nhiều học sinh thuộc
lòng, nhưng bà Nguyễn thị Bình và CSVN đặt lợi ích quyền lực đảng, quyền
lợi cá nhân bầy đàn lên trên quyền lợi dân tộc để cố tình quên…
“Duật bạng tương tranh, ngư nhân đắc lợi” (Nghĩa
đen) “Ngao cò tranh nhau khiến ngư ông được lợi”. (Nghĩa bóng) Sự tranh
chấp kéo dài giữa hai bên, khiến cho người thứ ba được hưởng lợi.
Chuyện kể rằng:
Có một con ngao đang mở miệng kiếm ăn. Bỗng nhiên, một chú cò lội qua
thấy thế bèn vươn cổ mổ ngay vào lòng chú ngao. Bị tấn công bất ngờ,
ngao lập tức khép miệng lại, kẹp chặt cứng vào mỏ cò. Cò cố hết
sức, vật vã mãi mà không sao gỡ được mỏ ra. Về phần mình, ngao cũng
không thể nào mở miệng ra vì như vậy cò sẽ thoát nạn đồng thời cũng kéo
theo ruột ngao ra ngoài. Hai bên giằng co vật vã thì ngư ông nhìn
thấy, nhanh tay tóm gọn cả hai. Một bữa canh ngao nấu chua, một bữa
thịt cò nướng than ngon lành bỗng dưng mà có...
Câu tục ngữ từ điển tích “ngao cò tranh nhau, ngư ông đắc lợi”
là một lời cảnh tỉnh: Sống trên đời cần phải trầm tỉnh, khôn ngoan đừng
để kẻ khác lợi dụng đắc lợi bởi sự “rồ dại” của chính mình – Nhất là
những kẻ cho là “lãnh đạo quốc gia”nhưng lại là phường “Giá áo túi cơm”.