Lời tác giả: Bài trên BBC phải rút gọn mất một nửa để vừa giới hạn số chữ. Đây là bản đầy đủ, bản-nhiều-chuyện: Đã ko nói thì thôi, đã nói thì tranh thủ nói cho hết ý :-)
Hôm nay thầy vừa gửi email bảo "I suggest that popular regard for 'the law' still remains poorly developed in VN" (Tôi nghĩ là sự chú ý của quần chúng về 'luật pháp' vẫn chưa phát triển lắm ở Việt Nam).
Mình trả lời lại: "Em tiếc là em đồng ý với thầy. Mọi người chú ý đến các vấn đề biển đảo nhiều hơn là chuyện đang sửa hiến pháp. Nhưng em vẫn nghĩ, ngay cả trong chuyện tranh chấp lãnh hải ở Biển Đông, tương quan lực lượng giữa Trung Quốc và Việt Nam chỉ có hi vọng thay đổi khi Việt Nam có dân chủ và phát triển nội lực cho mạnh mẽ hơn."
Mà một đất nước thiếu vắng hệ thống pháp luật chuẩn mực, thiếu vắng tinh thần thượng tôn pháp luật, thì chỉ có loạn, chứ lấy đâu ra "công bằng dân chủ," "dân giàu nước mạnh" mà làm eo với Tàu?!
Mình viết những bài viết về pháp luật cũng không nằm ngoài hi vọng nhiều người sẽ quan tâm hơn tới sự cần thiết cần có nền pháp quyền/thượng tôn pháp luật (rule of law): tiềm năng của luật hiến pháp trong việc bảo vệ quyền của người dân trước quyền lực nhà nước, khai phóng tiềm lực của xã hội (tự do), để theo đuổi những cải cách cần thiết - trong kinh tế, chính trị, xã hội, giáo dục - một cách hữu hiệu.
Thay đổi Hiến pháp và nhu cầu của xã hội
Nhìn
vào những thảo luận nhiều chiều xung quanh chuyện sửa Hiến pháp đang
diễn ra, có thể thấy sự cách biệt giữa ý thức hệ chính thống và dư luận
tự do trong xã hội.
Một số người nhìn vào cách Việt Nam đang sửa Hiến pháp mà thấy nản.
Những cuộc tổng kết trong nội bộ bộ máy nhà nước.
Một hội đồng soạn thảo Hiến pháp gồm những chính trị gia chóp bu - luật gia chỉ là trợ lý.
Một quy trình soạn thảo khép kín.
Khi
bản dự thảo được công bố, nhà cầm quyền chỉ nói đến "góp ý," chứ không
đả động gì đến trưng cầu dân ý để nhân dân phê chuẩn bản dự thảo, một
thủ tục còn được gọi là phúc quyết hiến pháp.
Thế nhưng trong thời
gian qua, phúc quyết hiến pháp là một trong những đòi hỏi mạnh mẽ nhất
trong các ý kiến sửa đổi Hiến pháp. Nhiều người cho rằng cần trở lại với
quy trình tu chính hiến pháp dân chủ của Hiến pháp 1946.
Một Hiến
pháp dân chủ của toàn dân khác với hiến pháp áp đặt ở chỗ nó được nhân
dân phúc quyết thông qua. Như nhiều trí thức trong nước đã lên tiếng,
thiếu phúc quyết Hiến pháp, Hiến pháp không còn là "khế ước xã hội" giữa
những con người tự do. Thiếu phúc quyết, Hiến pháp đơn giản không còn
là Hiến pháp.
Như vậy, chưa nói gì đến nội dung, chỉ riêng thủ tục
sửa đổi Hiến pháp đã không tạo được đồng thuận ngay trong chính giới
tinh hoa trong nước.
Xét về nội dung, một số người nhìn vào cách
hành văn dài dòng theo lối cũ trong lời mở đầu, khẳng định kiên định
"ánh sáng của chủ nghĩa Mác -Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh," vào điều 4
với Đảng cộng sản "là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội" là đã không
muốn đọc tiếp, đừng nói đến chuyện góp ý.
Cái Việt Nam thiếu là một không gian chính trị tự do
Nhưng
công bằng mà nói, cũng có một số sửa đổi - tuy nhỏ nhưng phản ảnh và
tiếp thu phần nào những ý kiến tiến bộ của giới trí thức trong thời gian
qua: thêm từ "kiểm soát" vào điều 2 - tuy vẫn khẳng định quyền lực nhà
nước là "thống nhất" (tức từ chối khái niệm phân quyền); thêm hội đồng
bảo hiến - dù đó chỉ là bảo hiến "cấp thấp" do Quốc hội thành lập
(chương X); bỏ các điều khoản về "Toà án địa phương" - có lẽ để làm tiền
đề cho cải cách hệ thống toà án theo cấp xét xử chứ không theo cấp
chính quyền địa phương (Chương VIII); thêm điều khoản về quyền "được
sống trong môi trường trong lành" (điều 46 mới) và trách nhiệm bảo vệ
môi trường (điều 68 mới) ; sửa điều 63 (cũ) về bình đẳng giới, bỏ đi
những điều khoản gia trưởng, thêm điều khoản "nghiêm cấm mọi hành vi
phân biệt đối xử về giới."
Tóm lại, nhìn vào bản dự thảo, người bi
quan thấy dòng sông vẫn còn đỏ - chủ nghĩa Mác-Lênin, sự độc quyền lãnh
đạo của Đảng Cộng sản dường như vẫn là nền tảng.
Người lạc quan nghĩ dòng sông bắt đầu pha màu xanh từ những tư tưởng cấp tiến được tiếp thu một cách manh mún.
Những
cải cách pháp luật hỗn dung, tư tưởng mới pha trộn những tư tưởng cũ,
kể cả khi chúng chẳng ăn nhập với nhau, lâu nay vẫn diễn ra ở Việt Nam.
Chúng
phản ảnh những thay đổi trong môi trường tri thức và xã hội, và thái độ
miễn cưỡng cải cách của đảng cầm quyền để đối phó với những đòi hỏi
chính đáng trong xã hội.
Vấn đề của việc sửa đổi Hiến pháp ở Việt
Nam không phải là do giới tinh hoa không nhận thức được thế nào là một
bản Hiến pháp dân chủ. Trong thời gian qua, quan niệm về Hiến pháp ở
Việt Nam đã thay đổi nhiều: từ quan niệm Hiến pháp như một văn bản chính
sách của đảng cầm quyền áp đặt, đến việc nhìn nhận Hiến pháp một cách
thông thoáng theo kiểu dân chủ tự do phương Tây - Hiến pháp là khế ước
xã hội do nhân dân đồng thuận thông qua, bảo đảm quyền tự do của nhân
dân và hạn chế quyền lực nhà nước.
Việt Nam không nhiều, nhưng
cũng không thiếu những luật gia, trí thức được đào tạo bài bản ở các
nước dân chủ, những người đã mang những tư tưởng cấp tiến vào môi trường
tri thức trong nước.
Cái Việt Nam thiếu là một không gian chính
trị tự do để những luồng tư tưởng hợp thời đại có cơ hội phát triển sâu
rộng và nhận được sự ủng hộ đông đảo của quần chúng.
Từ vài năm
trở lại đây, một số quyền trong Hiến pháp được người dân viện dẫn để làm
cơ sở pháp lý cho các hoạt động chính trị, xã hội, từ việc gửi kiến
nghị, đòi sở hữu đất, sở hữu xe máy, nhập cư vào thành phố, cho đến việc
biểu tình, ra báo mạng, lập tổ chức chính trị.
Nhưng ngay cả việc
viện dẫn Hiến pháp không giúp họ lấy lại đất đai, biến những kiến nghị
thành chính sách và luật pháp, hay bảo vệ họ khỏi trấn áp và tù tội khi
biểu tình hay lập tổ chức chính trị.
Cái Việt Nam thiếu không phải
chỉ là một bản Hiến pháp dân chủ chuẩn mực, mà chính là một cơ chế
chính trị dân chủ biết đáp ứng nguyện vọng của đa số nhân dân.
Giả sử nhà cầm quyền buộc phải nhượng bộ, ghi vào Hiến pháp những điều khoản dân quyền tiến bộ, lấy gì đảm bảo những điều khoản đó sẽ được thi hành,
khi trong thực tế cạnh tranh chính trị không bình đẳng, các quyền tự do
chính trị cơ bản bị hạn chế và xã hội dân sự bị kiểm soát chặt chẽ?
Những thay đổi Hiến pháp quan trọng không phải là tiền đề, mà là hệ quả
của những phong trào cấp tiến của xã hội dân sự
Nhìn
vào lịch sử hiến pháp của các nước, người ta thấy những thay đổi Hiến
pháp quan trọng không phải là tiền đề, mà là hệ quả của những phong trào
cấp tiến của xã hội dân sự.
Ở Mỹ, phải trải qua cả trăm năm, qua
chia rẽ, thậm chí nội chiến, chế độ nô lệ mới được bãi bỏ. Phải thêm
trăm năm nữa, người Mỹ gốc châu Phi và phụ nữ mới được quyền bỏ phiếu.
Các tu chính quan trọng trong Hiến pháp Hoa kỳ hay trong án lệ của Tòa
án Tối cao Mỹ ở thế kỷ 20 là hệ quả của phong trào Dân quyền và nữ quyền
qua nhiều thế hệ.
Ngay cả khi Hiến pháp không được tu chính, Tòa
án tối cao Mỹ cũng đã nhiều lần tự thay đổi án lệ của chính mình để đáp
ứng đòi hỏi mới của xã hội. Chẳng hạn, Tòa án Tối cao Mỹ đóng vai trò
quyết định trong việc bãi bỏ phân biệt chủng tộc trong trường học.
Ở Pháp, dù nổi tiếng với Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền 1789,
phải đến năm 1958, một Hội đồng Hiến pháp mới được lập ra, với thẩm
quyền hạn chế - xem xét tính hợp hiến về mặt thủ tục lập pháp của các dự
án luật sau khi chúng được Quốc hội Pháp thông qua và trước khi Tổng
thống ký ban hành dự luật đó. Phải đến những năm 1970, Hội đồng Hiến
pháp Pháp bắt đầu xem xét tính hợp hiến của các dự luật căn cứ vào các
điều khoản nhân quyền và tự do cá nhân trong Hiến pháp. Và gần đây, năm
2008, một tu chính Hiến pháp cho phép các tòa án tối cao yêu cầu Hội
đồng Hiến pháp xem xét tính hợp hiến của các văn bản luật khi chúng được
áp dụng vào cuộc sống. Tức là vấn đề bảo hiến không chỉ còn là đặc
quyền của các chính trị gia trước khi văn bản luật được thông qua, mà
người dân bình thường có thể đưa các vấn đề hiến pháp ra trước Hội đồng
Hiến pháp.
Những phát triển đó, theo giáo sư Martin Rogoff, là kết
quả của nhu cầu cần có một cơ chế làm mới Hiến pháp qua các giải thích
Hiến pháp, thay vì liên tục tu chính Hiến pháp, để đáp ứng các nhu cầu
chính trị và xã hội mới, như ảnh hưởng của luật pháp của Liên minh châu
Âu, các đòi hỏi bình đẳng của một xã hội Pháp ngày càng đa dạng về sắc
tộc và tôn giáo, hay sự xuất hiện của các hệ giá trị mới về dân chủ,
bình đẳng giới, tự do kinh tế, bảo vệ môi trường.
Những phát triển
Hiến pháp ở các nước dân chủ phương Tây đi theo chiều hướng ngày càng
mở rộng quyền bình đẳng và tự do đến nhiều giai tầng trong xã hội hơn.
Ở
Việt Nam, phát triển Hiến pháp có vẻ đi theo xu hướng ngược lại: từ bản
Hiến pháp tương đối dân chủ năm 1946, đến những bản Hiến pháp xã hội
chủ nghĩa áp đặt, thiếu chính danh năm 1959, 1980 - thay đổi chế độ
chính trị, thay đổi tên nước mà không được nhân dân phúc quyết.
Nhưng
trên thực tế, cho dù Hiến pháp 1959 hay Hiến pháp 1980 có quy định kinh
tế tập trung, chuyện nhân dân xé rào làm kinh tế tư nhân dẫn đến đổi
mới kinh tế năm 1986 đã là điều bây giờ ở Việt Nam ai cũng biết. Xã hội
luôn có không gian tự do của chính nó, dù hạn hẹp, mà chính trị trước
sau gì cũng phải thừa nhận.
Hiến pháp 1992 và bản Hiến pháp sửa
đổi năm 2001 đã bắt đầu có tín hiệu cởi mở hơn, vì những biến chuyển
trong kinh tế và bang giao quốc tế khiến nhà cầm quyền không có lựa chọn
nào khác.
Ở Việt Nam, cái vỏ bọc chủ nghĩa xã hội và cơ chế dân
chủ tập trung không ngăn cản được sự trỗi dậy của một xã hội dân sự đang
đòi hỏi những tự do thực tại của họ được công nhận trong Hiến pháp và
pháp luật.
Những thay đổi tiến bộ đã nêu ở trên - thêm quy định
kiểm soát quyền lực, Hội đồng bảo hiến, quyền môi trường, quyền bình
đẳng giới - không phải tự nhiên xuất hiện trong bản dự thảo.
Dự án
Bô-xít Việt Nam từ năm 2008 đã làm dấy lên trong dư luận những đòi hỏi
mạnh mẽ về quyền sống trong một môi trường trong lành.
Các nhóm cổ
vũ nữ quyền và các nhà tài trợ quốc tế từ hơn một thập kỷ trở lại đây
đã vận động để khái niệm bình đẳng giới được chấp nhận trong đời sống
chính trị xã hội, phần nào thay thế quan niệm "giải phóng phụ nữ" kiểu
gia trưởng xã hội chủ nghĩa.
Hội đồng bảo hiến, dù có vẻ hình
thức, có mặt trong bản dự thảo Hiến pháp lần này, cũng là vì giới trí
thức và dư luận biết việc thực thi và bảo vệ các quyền Hiến định quan
trọng hơn việc các quyền này chỉ được ghi trên giấy. Các cuộc biểu tình
chống Trung Quốc bị đàn áp, những kiến nghị không được lắng nghe, những
bắt bớ nhà bất đồng chính kiến bất kể quyền tự do ngôn luận, tự do lập
hội được ghi trong Hiến pháp, khiến người ta hiểu rằng một cơ chế bảo
hiến là cần thiết (cơ chế bảo hiến đó có hiệu quả không trong chế độ
chính trị một đảng, lại là chuyện khác).
Các sửa đổi về ngành Toà
án cũng phản ánh đòi hỏi của giới luật gia về việc tăng cường tính độc
lập của các Toà án khỏi sự chi phối của chính quyền địa phương và trung
ương trong quá trình xét xử.
Thay đổi trong chính trị và pháp luật
theo sau những thay đổi không đảo ngược được của đời sống xã hội, khi
đời sống kinh tế thay đổi, khi tri thức phát triển phóng khoáng hơn, khi
những bất công xã hội càng ngày càng lộ rõ đến mức không thể chấp nhận
được nữa.
Những gì đang diễn ra trong lần sửa đổi Hiến pháp lần
này nên được đánh giá trong bối cảnh của sự chuyển mình không ngăn cản
được của xã hội, của sự bối rối của nhà cầm quyền - đáp ứng cải cách
cũng dở, mà cố chấp bảo vệ độc quyền và đặc quyền cũng chẳng xong.
Hiến
pháp là nơi giao thoa giữa chính trị và pháp luật. Sửa Hiến pháp không
chỉ phụ thuộc vào lý trí, mà còn phụ thuộc vào tương quan lực lượng
chính trị.
Chỉ khi nhân dân ý thức được các quyền chính trị của
họ, được vai trò quyền làm chủ của họ, và cứ thực thi vai trò ấy, quyền
lợi ấy, thì giới lãnh đạo chẳng có lựa chọn nào khác ngoài việc thừa
nhận và cam kết tôn trọng các quyền ấy qua Hiến pháp và pháp luật.
Ý
nghĩa của việc góp ý Hiến pháp cũng là ở chỗ đó. Góp ý Hiến pháp không
phải là thừa nhận quyền lực của đảng độc quyền lãnh đạo và bản dự thảo
Hiến pháp giới lãnh đạo đề ra.
Qua góp ý Hiến pháp và phúc quyết Hiến pháp, nhân dân thực thi và khẳng định quyền làm chủ.
Nếu giới cầm quyền không tổ chức trưng cầu dân ý thì chính họ
sẽ bỏ lỡ cơ hội thiết lập tính chính danh cho quyền lực chính trị
Trong
lần sửa đổi Hiến pháp này, nếu giới cầm quyền không lắng nghe các góp
ý, không tổ chức trưng cầu dân ý để nhân dân phê chuẩn Hiến pháp, thì
chính họ - đảng cầm quyền, sẽ bỏ lỡ cơ hội thiết lập tính chính danh cho
quyền lực chính trị của họ và cho bản Hiến pháp được sửa đổi.
Bên
cạnh đó, điều mấu chốt không phải bản dự thảo Hiến pháp nói gì, mà là
nhân dân và giới tinh hoa đang lên tiếng đòi hỏi những gì để khẳng định
quyền làm chủ của chính họ, để Hiến pháp thực sự trở thành một khế ước
xã hội, một Hiến pháp dân chủ do nhân dân bàn thảo và phúc quyết thông
qua để đáp ứng nhu cầu của xã hội.
Nguyễn Thị Hường, Nghiên
cứu sinh khoa luật Đại học Indiana, Bloomington, Hoa Kỳ, với sự cộng tác
của Luật sư Trần Minh Quốc, Boston, Hoa Kỳ và Luật sư Vũ Đức Khanh,
Ottawa, Canada.