Nguyễn Lương Tuyền - Biến cố tháng 4 năm 1975 đã khiến hàng triệu, triệu người dân Việt phải rời quê hương để trốn chạy chế độ Cộng Sản, sống ở hầu như khắp mọi nơi trên thế giới tự do. Cuộc chiến do người CSVN gây ra đã khiến hơn 3 triệu người Việt bị chết. Sau ngày 30/4/1975, người Việt vẫn tiếp tục ra đi, từ chối sống dưới chế độ độc tài Cộng Sản. Đó cũng là một hình thức phủ nhận sự hiện hữu của chế độ phi nhân, man rợ này ở quê hương. Cho tới những năm đầu thập niên 80, số người vượt biên, vượt biển giảm dần dần. Hàng trăm, trăm ngàn người đã bỏ mình trên đường vượt biên. Thảm cảnh vượt biên - Boat People - đã làm rúng động lương tâm nhân loại.
Một trong những thống kê đầu tiên nói về Người Việt Tỵ nạn CS là thống kê năm 2001. Theo thống kê này, vào thời điểm đó có từ 2 tới 3 triệu người Việt tỵ nạn CS định cư tại các nước tự do. Họ định cư rải rác tại nhiều quốc gia tự do. Hoa Kỳ, Gia Nã Đại, Úc, Anh Pháp... là những quốc gia nhận nhiều người tỵ nạn CS định cư.
Một vài cuốn sách viết về người Việt tỵ nạn CS - rất hiếm hoi - là cuốn Giá Tự Do với ấn bản tiếng Anh được xuất bản năm 2014 bởi Nhà Xuất Bản Truyền Thông. Tác giả là Ông Lâm Vĩnh Bình tức ông Lâm Văn Bé. Ông Lâm là một giới chức cao cấp trong ngành Giáo Dục của VN Cộng Hòa trước ngày 30/4/1975. Sách đã được tái bản năm 2015. Theo ông Lâm vĩnh Bình, US Bureau of Census làm Thống Kê về Người tỵ nạn Việt Nam mỗi 10 năm. Nhưng giữa 2 lần thống kê chính thức, US Census cũng làm thống kê mỗi 1 năm, mỗi 3 năm và mỗi 5 năm để cập nhật hóa một số dữ kiện.
Theo US Census, năm 2015 tại Hoa Kỳ, có 1.710.547 Người Việt Tỵ nạn CSVN định cư ở Hoa Kỳ. Nếu kể cả các con lai đa chủng, con số này sẽ lên đến 1.928.363 người.
Khi chế độ CS sụp đổ ở Nga, ở Đông Âu, một số lớn các lao động VN được CSVN gửi sang các nước đó làm '"lao nô" đã vượt biên giới sang sinh sống tại các nước tự do. Con số này lên đến 1,4 triệu người kể cả các du học sinh. Theo ông Lâm Vĩnh Bình, chúng ta phải phân biệt sự khác nhau giữa Người Việt Tỵ nạn Công Sản và những người này.
Người Việt Hải Ngoại đã rất thành công trong cuộc sống hội nhập mới. Hàng trăm ngàn chuyên viên kỹ thuật rất có khả năng đã và đang đóng góp tích cực vào quê hương thứ hai. Chính Người Việt tỵ nạn CS - (bọn đĩ điếm trốn nợ quê hương theo giọng điệu của Cộng Sản Việt Nam) - đã cứu nền kinh tế của CSVN khỏi bị sụp đổ vào những năm 80. Cũng chính các "khúc ruột ngàn dậm" (CSVN gọi người tỵ nạn CS bằng ngôn từ mới) đã gửi về VN hơn 12 tỷ Mỹ Kim mỗi năm.
Trước Thế Chiến thứ hai, rất nhiều nước trong đó có VN, bị các đế quốc đô hộ, nên hoàn toàn mất chủ quyền. Hiện nay vẫn còn vài nước bị đô hộ, dân tộc bị đồng hóa, bị diệt chủng.
Các nước hiện còn bị đô hộ, đồng hóa; dân tộc bị tiêu diệt bởi các hình thức đế quốc, thực dân:
Đế quốc Nga đã tan vỡ, các nước trong Liên Bang Sô Viết cũ đã được hoàn toàn độc lập. Các đế quốc khác như Anh, Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha... đã trao trả độc lập cho các thuộc địa cũ. Chỉ còn một đế quốc duy nhất là Trung Cộng. TC đang đô hộ, đồng hóa và diệt chủng từ từ các sắc dân sau đây:
- Tây Tạng: TC chiếm Tây Tạng năm 1952. Văn minh Tây Tạng cũng như các di tích văn hóa của Tây Tạng đều bị TC phá hủy. Ngày 20 tháng 7 năm 2016, TC đã phá hủy Học Viện Larung Gar - một chứng tích của văn minh Tây Tạng -, mặc dù có nhiều sự phản đối cũng như cầu xin đến từ mọi nơi trên thế giới. Trước khi bị TC chiếm, dân số Tây Tạng khoảng 3 triệu người. Hiện nay số người định cư ở Tây Tạng là hơn 7 triệu người, nhưng gồm đa số là người Hán sang định cư. Dân Tây Tạng trở thành thiểu số trên quê hương của họ.
- Dân tộc Duy Ngô Nhĩ ở Tân Cương: đa số là người Hồi Giáo. Tân Cương trở thành 1 Đặc Khu Tàu từ năm 1826. Hiện nay người Duy Ngô Nhĩ chi còn độ 8,3 triệu. Số còn lại của 21 triệu 8 là người Hán đến định cư ở Tân Cương và một số nhỏ các sắc dân khác.
- Nội Mông Cổ: là Khu Tự Tri thuộc Trung Hoa từ năm 1947.. Dân Nội Mông Cổ bây giờ là dân thiểu số trên chính quê hương của họ: 3 triệu 7 versus 21 triệu 7 sau hơn 70 năm bị người Hán đô hộ.
Tham vọng kế tiếp của TC là biến VN thành một Đặc Khu nằm trong nước Đại Hán. Dân Việt chắc chắn sẽ bị Đại Hán diệt chủng từ từ.
Những dân tộc đang đi tìm một tổ quốc:
Chúng ta đang sống ở đầu thế kỷ thứ 21, nhưng trên thế giới vẫn còn có những dân tộc vẫn đang tìm, trong tuyệt vọng, một giải đất dung thân, để họ gọi là Tổ Quốc như:
* Người Arméniens: khoảng hơn 11 triệu. Họ sống rải rác tại nhiều nước trên thế giới như tại nước Pháp có độ 1/2 triệu người Améniens nhưng đông nhất là tại vùng Russia Armeny (khoảng hơn 3 triệu người).
* Người Kurdes: khoảng 23 triệu. Họ hiện sống ở vùng biên giới phía Bắc của Irak, Syria, Thổ Nhĩ Kỳ.
* Người Palestine: Hiện nay Do Thái đã trao trả cho người Palestine, giải đất Gaza và vùng West Bank. Tại Gaza có hơn 1 triệu người Palestine định cư trong khi tại vùng West Bank có độ từ 1 đến 2 triệu. Ngoài ra,người Palestine sống rải rác tại nhiều quốc gia, kể cả Hoa Kỳ, Gia Nã Đại... Sau khi có 1 giải đất để làm tổ quốc,các cuộc tấn công của người Palestine nhắm vào người Do Thái đã giảm thiểu rất nhiều.
* Trường hợp dân tộc Do Thái: Lịch sử lập quốc của người Do Thái là một lịch sử đầy máu và nước mắt cũng như những vinh quang. Dân tộc Do Thái bị phát vãng khắp nơi. Hơn 6 triệu người Do Thái định cư ở Âu Châu, đã bị Đức Quốc Xã tàn sát trong thế chiến thứ 2. Quốc gia Do Thái hiện nay được Liên Hiệp Quốc cho thành lập tại Trung Đông vào năm 1948, ngay tại một vùng Đất Thánh của nhiều sắc tộc Ả Rập. Cả nước Israel chỉ rộng độ hơn 20 000km2. (Trước khi mất Ải Nam Quan và mất một giải đất vùng biên giới vào tay Trung Hoa, VN có diện tích 330 000 km2, gấp 17 lần nước Do Thái hiện nay).
Lịch sử tái hồi nước Do Thái được khởi đầu vào năm 1948 khi Liên Hiệp Quốc dành giải đất ngay tại vùng Địa Trung Hải để Dân Do Thái có một tổ quốc. Khối Ả Rập không chấp nhận sự kiện nước Do Thái hiện hữu ở vùng Trung Đông, một vùng đầy dân Ả Rập rất bài Do Thái. Nhiều cuộc đại chiến đã xảy ra giữa Do Thái và khối Ả Rập. Do Thái đã toàn thắng tất cả các trận chiến, đã mở rộng đất đai của nước Israel. Hiện nay dân số của Israel có khoảng dưới 6 triệu nhưng đại đa số người Do Thái sống ở Hoa Kỳ (hơn 6 triệu) Anh, Pháp và Canada và một số nước ở Âu Châu. Người Do Thái rất thông minh, tài giỏi. Họ luôn luôn hỗ trợ rất tích cực quê hương Israel. Người ta có thể nói không ngoa là lực lượng bảo vệ nước Israel hữu hiệu nhất chính là khối người Do Thái sống ở bên ngoài chính quốc. Họ rất thành công: tại Mỹ, Gia Nã Đại... Ban Giảng Huấn tại các Đại Học nổi tiếng có nhiều người Do Thái. Người Do Thái cũng chi phối đời sống chính trị, kinh tế và văn học tại các nước mà họ định cư: Cựu Tổng Thống Pháp Nicolas Sarcozy, Thủ Tướng Pháp (nay là Ngoại Trưởng) Laurent Fabius là người gốc Do Thái. Nhiều người Do Thái được giải thưởng Nobel về mọi lãnh vực nhất là khoa học hơn bất kỳ một sắc dân nào trên thế giới. Độ 160 người Do Thái được giải Nobel kể từ ngày giải thưởng cao quí này được thiết lập (1/5 tổng số giải Nobel được trao tặng), trong khi cả khối người Ả Rập chỉ được trao tặng giải thưởng này có 11 lần.
Dù sống ở bất kỳ ở đâu, họ luôn luôn giữ sắc thái "Do Thái" của họ. Có lẽ tôn giáo, ngôn ngữ, văn tự... là keo sơn thắt chặt người Do Thái ở khắp mọi nơi trên thế giới với nhau.
Trường hợp Việt Nam:
Cũng như dân tộc Do Thái, lịch sử của dân Việt là lịch sử các cuộc chiến để bảo vệ tổ quốc trước dã tâm xâm lấn, rồi đồng hóa của người Tàu ở phương Bắc. Bị Tàu đô hộ, có khi kéo dài hơn 1000 năm, nhưng dân Việt không bị đồng hóa hay nói đúng hơn không đồng hóa được.
Khởi thủy, Tổ Tiên của người Việt - nhóm Bách Việt - cư ngụ ở bên trong nước Tàu, ở vùng Thiểm Tây, Tứ Xuyên, phía Nam sông Dương Tử. Các nhóm Bách Việt bị người Hán đồng hóa. Chỉ còn một nhóm chạy xuống lập nghiệp ở phía Nam, ngay tại châu thổ sông Hồng Ha, là còn tồn tại, không bị đồng hóa. Họ lập ra nước Văn Lang vào khoảng năm 700 trước Công Nguyên. Đó là khởi thủy lập quốc của Việt Nam. Trong quá khứ, Tàu đã đô hộ VN nhiều lần. Lần đô hộ lâu nhất kéo dài hơn 1000 năm nhưng người Tàu không đồng hóa được dân Việt. Tuy vậy văn hóa của Đại Hán đã ảnh hưởng sâu rộng lên dân Việt.
Trong suốt chiều dài lịch sử của dân Việt và ngay cả cho đến ngày nay, ý định xâm lăng, chiếm đóng, để rồi đồng hóa VN, lúc nào cũng ám ảnh người Tàu. Cơ may cho họ đã đến khi Hồ Chí Minh và đảng CSVN cầu cứu Tàu viện trợ về mọi phương diện trong 2 cuộc chiến tranh Đông Dương để áp đặt chế độ Cộng Sản lên dân tộc.
Thực ra "cam kết dâng nước Việt cho TC" đã được Hồ Chí Minh ký bằng "lời hứa danh dự" vào năm 1926 với 2 đại tướng Tàu cộng là Trần Canh, Vi Quốc Thanh, thay mặt cho Mao Trạch Đông. Khi thành lập đảng Cộng Sản Việt Nam năm 1930, Hồ Chí Minh lại xác định một lần nữa với Thủ Tướng TC Châu Ân Lai: ''Việt Nam và Trung Quốc tuy hai mà một. Một dân tộc. Một nền văn hóa Một phong tục...''
Hồ Chí Minh đâu có ngờ - hay cố tình giả mù, giả điếc - hay không biết đến dã tâm của Tàu, trong lịch sử, từ cổ chí kim: đó là sát nhập VN vào nước Tàu.
Bản đồ Tàu vẽ lại năm 1954 tại Bắc Kinh sau khi Mao Trạch Đông
hoàn toàn chiếm cứ nước Tàu, cho thấy TC vẫn coi VN là 1 phần lãnh thổ của Tàu.
Bản đồ "Đại Hán" do Trung cộng vẽ năm 1954 tại Bắc Kinh. Theo TC, nước Tàu bao gồm cả các nước ở Đông Nam Á, Đài Loan, bán đảo Triều Tiên, tất cả Biển Đông.
Sau khi CS sụp đổ ở Nga và tại các nước ở Đông Âu, để sống còn, CSVN bèn quay sang "lạy lục" TC để giao hảo lại. Mối giao tình đã trở nên lạnh nhạt sau cuộc chiến biên giới năm 1979. Nguyễn Văn Linh, người kế vị Lê Duẩn (chết năm 1987) trong chức vụ Tổng Bí thư của đảng CSVN, đã sang TC nhiều lần để bàn bạc với các thủ lãnh của TC như Đặng Tiểu Bình, Hồ Diệu Bang để: "cắt đất, cắt biển để sau cùng sát nhập VN vào Trung Quốc một cách êm ả qua chiến thuật: hòa bình, hữu nghị, chầm chậm, êm ả, kín đáo".
Nguyễn Văn Linh, Phạm Văn Đồng va Đỗ Mười, đã giấu nhân dân VN để ký với các lãnh tụ TC một Hiệp Ước bán nước tại Thành Đô nên được họ gọi là Hiệp Ước Thành Đô. Nguyễn Văn Linh nổi tiếng với câu nói để đời trong lịch sử của dân tộc Việt: "Tôi biết rằng đi với TQ là mất nước nhưng thà mất nước còn hơn mất Đảng."
Nội dung của Mật Ước Thành Đô được giữ kín, nhưng các rò rỉ cho thấy việc sát nhập VN vào nước Đại Hán sẽ qua 3 giai đoạn, mỗi giai đoạn 20 năm kể từ năm 2020.
Trên thực tế, tới giờ phút này (cuối tháng 12/2016), VN đã bị TC hoàn toàn xâm chiếm mà TC không cần nổ một tiếng súng nào:
* Ở vùng biên giới, TC đã chiếm cứ hàng ngàn km2 vùng biên giới. Ải Nam Quan, Thác Bản Giốc... nay thuộc TC.
* Các biển, đảo của VN (quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa cũng như toàn Biển Đông đều bị TC chiếm cứ.
* Người Tàu đã có mặt trên toàn cõi VN. Các đặc khu Tàu mọc lên như nấm trên quê hương Việt Nam.
* Bên cạnh sự có mặt đông đảo của người Tàu tại VN, TC còn "bao vây" VN bằng những gọng kìm hiểm độc khiến VN bị bốn bề thọ địch:
- Phía Tây: giòng sông Mekong, huyết mạch của sự sống của cả Miền Nam nước Việt. Họ kiểm soát lưu lượng nước chảy xuống hạ nguồn của giòng sông khiến miền châu thổ của sông Cửu Long ở Miền Nam bị muôn vàn khốn đốn, ảnh hưởng đến sự sống còn của vài chục triệu người dân Việt.
- Biển Đông: bị TC chiếm đóng. Nghề đánh cá cũng như các hoạt động ngư nghiệp khác của ngư dân ở Miền Trung đang bị Hải Quân của TC cản trở. Về phương diện quân sự, Hải Quân TC coi Biển Đông thuộc về TC. Lãnh Hải của VN bị thu hẹp lại, chỉ còn là một giải nước chật hẹp dọc bờ biển Miền Trung.
Trong nội địa của nước Việt: TC đã gần như chiếm toàn cõi nước Việt bằng kinh tế, bằng di dân cũng như tàn phá môi trường quê hương cũng để giết hại người Việt trong ý đồ diệt chủng của họ bằng các chất độc. Điển hình là vụ Formosa ở Hà Tĩnh đã khiến biển Miền TRung bị triền miên nhiễm độc. 90% các dịch vụ đấu thầu đều rơi vào tay các nhà thầu TC. Người ta thấy đầy chất độc trong các thực phẩm, các dụng cụ, đồ dùng hàng ngày nhập cảng từ TC. Vụ Formosa là một trong muôn vàn thí dụ TC đang tàn phá môi trường của sự sống ở VN.
Tóm lại cả dân tộc Việt đang bị đầu độc để rồi bị tiêu diệt từ từ bởi Trung cộng. Người ta tin rằng TC có cả một chiến dịch để tiêu diệt dòng giống Lạc Hồng như họ đã và đang thi hành ở Tây Tạng, Tân Cương, Nội Mông... Dân số 90 triệu của VN sẽ còn lại độ bao nhiêu sau vài chục năm Hán thuộc?
Việt Nam ngày nay: sau gần 1 thế kỷ Xã Hội Chủ Nghĩa
Hai cuộc chiến tranh tàn hại trên nước VN do Hồ Chí Minh và đảng CSVN gây ra chỉ để nhuộm đỏ toàn nước Việt theo lệnh của CS Quốc Tế. Đó không phải là cuộc chiến tranh giải phóng như CSVN thường tuyên truyền. Hậu quả của 2 cuộc chiến đó là:
* Khoảng trên dưới 3 triệu người bị thiệt mạng;
* Quê hương bị tàn phá, tan nát không bút nào tả xiết vì "chiến tranh giải phóng" của CSVN;
* Người Việt bỏ xứ ra đi. Các hiểm nguy trên đường vượt biên, vượt biển tìm tự do không làm họ sờn lòng. Hàng triệu người đã bỏ mạng trên đường vượt thoát chế độ CS bất nhân, bạo tàn. Bi hùng ca "vượt biên, vượt biển" đã kéo dài hàng chục năm nhất là 5-6 năm đầu sau ngày định mạng 30/4/1975. Trong lịch sử của dân tộc, chưa bao giờ người dân lại phải bỏ quê hương, đi tha phương cầu thực đông như vậy, mặc dù quê hương đã im tiếng súng. Hàng triệu, triệu người đã chết tức tưởi trên đường vượt biên, vượt biển tìm tự do, rời bỏ "thiên đường" Cộng Sản. Hàng triệu, triệu gia đình tan nát, chia lìa... vì cuộc chiến - một cuộc chiến vô ích, không cần thiết chỉ nhằm thiết lập một chế độ man rợ, đi ngược lại lương tâm con người bình thường.
* Năm 1975, ngay sau khi chiếm được Miền Nam, CSVN đã hành xử như những quân ăn cướp, thổ phỉ đến từ một nước ngoại quốc. Họ đã ăn cướp bằng đủ loại chiến dịch như đổi tiền, đánh tư sản, tịch thu các cơ sở thương mại kỹ nghệ của Miền Nam... Quân CS đến từ Miền Bắc quả là những tên ăn cướp, như những tên thổ phỉ đang bị đói, thiếu ăn, đến từ một nước khác. Quả thực "cuộc giải phóng" miền Nam của quân Bắc Việt Cộng Sản quả là một cuộc xâm lăng theo đúng nghĩa của 2 chữ này. CSVN đã lập ra những nhà tù trên khắp nước để cầm tù khổ sai trên 1 triệu Quân, Cán, Chính của Miền Nam.
* Văn hóa CS đã được Hồ Chí Minh và các đồng chí của ông ta xâm nhập bằng võ lực sắt máu để bắt người dân phải theo. Đó là một nền văn hóa của nói dối, của lường gạt, chỉ tạo ra những kẻ ăn cắp ăn cướp giết người không gớm tay. Tất cả chỉ để tận diệt một nền văn hóa tiến bộ dung hòa giữa văn hóa Tây Phương và văn hóa cổ truyền của dân Việt.
* Hậu quả của gần 100 năm dưới chế độ CS,, xã hội VN là xã hội của ăn cắp, ăn cướp: ăn cắp từ trên xuống dưới. Quan lớn CS ăn cắp lớn, quan nhỏ ăn cắp nhỏ. Người Việt "nổi tiếng" ăn cắp trên thế giới vì khi ra ngoại quốc hay đi ăn cắp. Ngày nào các cơ quan truyền thông cũng loan tin các vụ ăn cắp, ăn cướp, các hành động cướp của giết người không gớm tay cũng như các vụ đâm chém nhau hàng loạt hầu như xảy ra mỗi ngày. Con người trở nên hoàn toàn vô cảm trước các tệ đoan xã hội, vô cảm hơn bao giờ hết. Vô cảm ngay đối với đại họa mất nước đang từ từ xảy ra cho quê hương. CSVN đang hủy hoại hoàn toàn không thương tiếc đất nước yêu quí này.
* CSVN, với lực lượng Công An, Cảnh Sát khổng lồ đang bắt cả dân tộc làm con tin cho chủ nghĩa Cộng Sản. Người dân bị cấm đoán, không được nói lên tiếng nói yêu quê hương của mình. Nền giáo dục, Y Tế đang bị hoàn toàn phá sản. Trong khi đó CSVN cố ru ngủ dân chúng bằng các chương trình văn nghệ giải trí, ăn chơi. Một số văn nghệ sĩ ở hải ngoại, đã tạm quên hay cố quên hẳn những ngày vượt biên, vượt biển đầy gian lao, quên cái quá khứ tỵ nạn, để về VN tiếp tay cho CS để tiếp tục hành hạ dân tộc.
Người Việt tại Hải Ngoại: nguồn hy vọng độc nhất cho dân tộc Việt
Khối người Việt tại Hải ngoại đã rất thành công trong non một nửa thế kỷ. Khả năng kinh tế, tài chánh của 3 triệu Việt Kiều (theo Chủ Tịch Mặt Trận Tổ Quốc kiêm Ủy Viên Bộ Chính Trị Nguyễn Thiện Nhân thì con số người Việt sống ở nước ngoài lên đến 4 triệu rưỡi) hơn hẳn khả năng kinh tế của hơn 90 triệu người tại quê hương VN. Số lượng các chuyên viên kỹ thuật, tài chánh v.v... có thừa khả năng thay thế đảng CSVN để điều khiển cả quốc gia với hơn 90 triệu người như VN hiện nay. Người Việt Tỵ nạn CS đã thành công trong mọi lãnh vực, hòa nhịp vào đời sống của xã hội mà họ được nhận vào định cư. Hoa mắt trước những thành công của Người Việt Hải Ngoại, chóa mắt vì những "đồng dollars" của "bọn đĩ điếm, bọn trốn nợ quê hương của ngày nào", CSVN bèn đổi ngay thái độ, chuyển sang ve vãn những người đã từng là nạn nhân của cộng sản, bằng tất cả các "mỹ từ" để gọi các người đã bị "các đồng chí" làm cho khốn khổ khi còn ở quê nhà.
Khối người Việt hải ngoại là nguồn hy vọng:
- Cho sự sống còn của dòng giống Lạc Hồng.
- Cho việc duy trì và phát triển văn hóa của giống nòi Việt. Trong khi đó tại quê nhà, văn hóa cổ truyền của dân Việt từ ngàn xưa bị Cộng Sản Việt Nam thay thế dần dần bằng văn hóa Mác Xít - Lênin, văn hóa của nói dối, lường gạt, văn hóa của ăn cắp.
- Cho sự sống còn của quê hương trước sự xâm lăng của người Tàu từ phương Bắc. Các người cầm đầu của đảng CSVN đang hiến dâng quê hương cho kẻ thù truyền kiếp. Mọi biểu lộ công khai lòng yêu nước đều bị CSVN cấm đoán, đàn áp dã man. Ngay từ những ngày bắt đầu cuộc sống ly hương chạy trốn chế độ Cộng Sản, người Việt, được định cư tai các nước tự do trên quả địa cầu, đã tìm về sống gần bên nhau, những mong tìm được hơi ấm của tình đồng hương. Hô lập ra các Cộng Đồng Người Việt. Tại rất nhiều nơi, với sự giúp đỡ của các chính quyền sở tại, các Cộng Đồng Người Việt với lá cờ vàng ba sọc đỏ được chính thức nhìn nhận là các đại diện cho tập thể người Việt Quốc Gia, không Cộng Sản. Tại bất kỳ ở đâu, một ban đại diện của cộng đồng được thành lập một cách dân chủ tự do. Nhiệm vụ của các người lãnh đạo cộng đồng là giúp các đồng bào ổn định cuộc sống đồng thời duy trì và phát triển cộng đồng, gìn giữ và phát triển nền văn hóa dân tộc. CSVN tìm mọi cách xâm nhập các cộng đồng người Việt ở Hải Ngoại để phá hoại nhưng cho tới bây giờ họ vẫn không thành công. Trong số hàng trăm tổ chức cộng đồng Việt ở hải ngoại, không có một tổ chức cộng đồng nào trở thành một cộng đồng thân Cộng hay có những hành động cổ động cho chế độ phi nhân cộng sản. Các nhân vật CS đặt chân tới các cộng đồng hải ngoại đều bị đồng bào tẩy chay. Thậm chí tại nhiều nơi có đông đảo người gốc Việt định cư, các thành phần CS còn bị cấm cửa, không cho đặt chân tới.
Các cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản đã thành lập ra một nước Việt thứ hai ở ngoài giải đất hình chữ S. Giải đất này đang dần dần mất vào tay ngoại bang với sự tiếp tay đắc lực của CSVN.
Để tạo thành một quốc gia, ta cần nhiều yếu tố như: lãnh thổ, dân tộc, một chính quyền... Ngoài ra yếu tố văn hóa cũng là yếu tố cực kỳ quan trọng. Người Việt tỵ nạn Cộng Sản ở Hải Ngoại có đầy đủ những yếu tố này để tạo thành một nước Việt Nam khác, hoàn toàn ở Hải Ngoại.
Lãnh thổ: Hiện nay với các phương tiện giao thông hiện đại, các phương tiện thông tin cực kỳ tối tân, con người đã có mạt tại khắp mọi nơi. Biên giới quốc gia bị thu nhỏ lại. Ta có quyền gọi một nơi nào đó trên thế giới là lãnh thổ của dân Việt bất cứ nơi nào có Cộng Đồng Việt sinh sống.
Dân tộc: Bất cứ một cộng đồng Việt tỵ nạn CS trên thế giới cũng là một phần của dân tộc. Thật đúng như người CSVN đang rêu rao: người tỵ nạn là một bộ phận không thể tách rời của dân tộc Việt. Không ngờ người CSVN lại đồng thuận với "một" quan niệm, một cái nhìn về nước Việt của Người Việt Quốc Gia về quê hương.
Chính quyền: Tại các cộng đồng Việt tỵ nạn cộng sản trên khắp thế giới, những người lãnh đạo của cộng đồng chính là một hình thức chính quyền. Chính quyền này được bầu ra một cách hết sức dân chủ. Chính quyền này được dân chúng bầu ra để thực sự phục vụ cộng đồng. Không phải một loại "chính quyền" của đảng CS, được đảng CS đặt ra, theo kiểu đảng cử dân bầu - không qua một cuộc bầu cử dân chủ và công bằng tối thiểu nào.
Các cộng đồng người Việt di tản tại hải ngoại càng ngày càng vững vàng và hùng mạnh đầy khả năng, an cư lạc nghiệp trong một xã hội mới. Giai đoạn an cư lạc nghiệp của người Việt hải ngoại chỉ trong vài chục năm, đã thành công rực rỡ trên mọi lãnh vực của đời sống, ngay cả trong lãnh vực chính trị, khiến người CSVN vô cùng thèm muốn, pha lẫn ganh tị.
Giai đoạn kế tiếp là giai đoạn của phát triển và hội nhập hoàn toàn. Hơn lúc nào hết, vì tương lai của sự sống còn của dòng giống Việt, tương lai của văn hóa của dòng giống Lạc Hồng, các cộng đồng Việt tại khắp nơi trên thế giới sẽ phải hướng các hoạt động của tập thể Việt vào các lãnh vực này. Nước Việt ở ngoài quê hương ở bán đảo Đông Dương sẽ là một nước hùng mạnh, có khả năng lấy lại quê hương đang bị CSVN và CS Trung Quốc giày xéo.
Khối người Việt tỵ nạn cộng sản ở ngoài nước Việt đã hình thành một Tổ Quốc Việt Nam hùng mạnh, đầy khả năng trong khi quê cũ đang bị mất dần về tay Trung Cộng với sự đồng lõa của đảng Cộng Sản Việt Nam.
Người Việt Hải Ngoại đã thành công, bảo vệ lý tưởng quốc gia tại bất cứ nơi nào họ lập nghiệp. CSVN không thể xâm nhập vào các cộng đồng Việt để phá hoại. Một vài hoạt động chống CS đã gây được tiếng vang không những trong tập thể Người Việt tại khắp mọi nơi trên thế giới mà còn đạt được sự ngưỡng mộ và thán phục tại nhiều quốc gia có người Việt tỵ nạn CS lập nghiệp như:
- Phá vỡ huyền thoại Hồ Chí Minh khiến y không được Liên Hiệp Quốc vinh danh là vĩ nhân của thế giới;
- Ngày 11/5 mỗi năm được Quốc Hội Hoa Kỳ xác định là Ngày Nhân Quyền cho Việt Nam;
- Cờ vàng ba sọc đỏ đã được nhiều Tiểu Bang của Hoa Kỳ, Gia Nã Đại... công nhận là cờ của tập thể người Việt tỵ nạn Cộng Sản;
- Nhiều nơi ở Hoa Kỳ đã cấm nhân viên CSVN đặt chân tới cũng như mọi hình thức tuyên truyền như cờ đỏ đều bị cấm bằng các đạo luật do Quốc Hội sở tại ban hành;
- Nhiều người Việt trở thành Quan Toàn Quyền, Bộ Trưởng, Nghị Sĩ, các khoa học gia tại các đại học nổi tiếng. Nhiều tướng, tá gốc Việt đã và đang chiến đấu trong Quân Đội Hoa Kỳ, Quân Đội Úc, Quân Đội Gia Nã Đại...
Nhiệm vụ của mỗi Người Việt tỵ nạn CS là phải tiếp nối những người đi trước trong công cuộc bảo vệ, duy trì dòng giống Việt. Chỉ có nước Việt tại Hải Ngoại mới có khả năng, ý chí cũng như khát vọng bảo tồn và phát huy văn hóa Việt, một nền văn hóa đang bị CS tiêu diệt để giúp ngoại bang mau chóng đô hộ quê hương, diệt chủng giống Lạc Hồng.
Phát triển bền vững cộng đồng để tạo nên sức mạnh cần thiết cho việc quang phục quê hương để giải cứu giống nòi.
CSVN đã tàn phá quê hương, giết người hàng loạt trong vòng gần 100 năm để rồi họ dâng đất nước cho ngoại bang ở phương Bắc. Cuộc diệt chủng nhắm vào người Việt của TC đã và đang được tiến hành (như họ đã và đang làm tại Tây Tạng, Tân Cương, Nội Mông Cổ). CSVN đã làm tê liệt sức đối kháng, làm thui chột lòng yêu nước của toàn dân ở trong nước. Chỉ còn Người Việt ở Hải Ngoại là nguồn hy vọng độc nhứt của giống nòi. Cuộc quang phục cứu quê hương, cứu dòng giống Lạc Hồng mới chỉ được bắt đầu. Xin mời bạn.
Nguyễn Lương Tuyền